Cơ quan Quản lý Dược phẩm Châu Âu (EMA)
Ngày 21/11/2014, Nhóm điều phối của Quy trình đăng ký thuốc sử dụng trên người không tập trung và thừa nhận lẫn nhau giữa các thành viên trong liên minh Châu Âu (Coordination Group for Mutual Recognition and Decentralised Procedures – Human – CMDh) đã chấp thuận việc thắt chặt việc giới hạn sử dụng valproate trên phụ nữ do nguy cơ gây quái thai và các rối loạn phát triển theo lứa tuổi đối với trẻ từng bị phơi nhiễm valproate từ trong thai kỳ, tiếp theo kiến nghị của Ủy ban Đánh giá nguy cơ Cảnh giác dược Châu Âu (PRAC) trực thuộc Cơ quan Quản lý Dược phẩm Châu Âu (EMA) vào ngày 10/10/2014 trước đó.
Các bác sĩ được khuyến cáo không nên kê đơn valproate động kinh hoặc rối loạn tâm thần lưỡng cực đối với trẻ vị thành niên nữ và phụ nữ đang mang thai hoặc dự định mang thai trừ trường hợp các phác đồ điều trị khác không có hiệu quả hoặc bệnh nhân không dung nạp được. Trong trường hợp bắt buộc sử dụng valproate, phải sử dụng biện pháp tránh thai có hiệu quả và việc điều trị phải được bắt đầu và được giám sát bởi bác sĩ có kinh nghiệm trong điều trị bệnh. Bệnh nhân nữ được kê đơn thuốc này không nên dừng thuốc mà không có ý kiến bác sĩ điều trị vì có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho chính bệnh nhân hoặc cho thai nhi. Ở nhiều nước, valproate được cho phép sử dụng để phòng bệnh đau nửa đầu. Trong trường hợp này, phụ nữ tuyệt đối không được sử dụng thuốc này với mục đích để phòng đau nửa đầu khi đang mang thai. Việc phòng tránh thai phải được tiến hành trước khi bắt đầu điều trị bằng valproate và phụ nữ nên sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả trong suốt thời gian điều trị. PRAC cũng đã khuyến cáo các bác sĩ khi kê đơn valproate phải cung cấp đầy đủ thông tin cho bệnh nhân nữ để đảm bảo rằng bệnh nhân hiểu rõ về nguy cơ này và ủng hộ quyết định của bác sĩ. Bên cạnh đó, bác sĩ điều trị phải tiến hành rà soát lại dựa trên thực hành lâm sàng thường quy đối với việc điều trị cho trẻ vị thành niên nữ và phụ nữ, bao gồm cả thời gian dậy thì và chuẩn bị mang thai. PRAC cũng nhấn mạnh rằng phụ nữ đang trong thời gian điều trị không nên tự ý dừng valproate mà không tham khảo ý kiến bác sĩ. Các thông tin sản phẩm ở Châu Âu dành cho nhân viên y tế và bệnh nhân cũng sẽ được cập nhật thông tin và khuyến cáo mới nhất này.
Thông tin cho bệnh nhân:
Không tự ý dừng thuốc valproate mà không tham khảo ý kiến bác sĩ vì điều này có thể gây hại cho chính bệnh nhân hoặc thai nhi.
Thuốc valproate có thể gây quái thai và các rối loạn phát triển theo lứa tuổi đối với trẻ từng bị phơi nhiễm valproate từ trong thai kỳ.
Nếu bệnh nhân chuẩn bị mang thai, nên sử dụng một biện pháp tránh thai thích hợp có hiệu quả. Tham khảo ý kiến bác sĩ/dược sĩ nếu bệnh nhân cần tư vấn về biện pháp tránh thai phù hợp.
Báo với bác sĩ ngay lập tức nếu mang thai, nghi ngờ có thai hoặc có kế hoạch mang thai để bác sĩ tiến hành rà soát khẩn cấp việc trị liệu của bệnh nhân.
Thông tin cho nhân viên y tế:
Đối với điều trị bệnh động kinh hoặc rối loạn tâm thần lưỡng cực ở bệnh nhân nữ:
Chỉ được phép kê đơn valproate trong trường hợp các phác đồ điều trị khác không có hiệu quả hoặc bệnh nhân không dung nạp được.
Khuyến cáo bệnh nhân đang dùng valproate sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả trong suốt thời gian điều trị.
Bảo đảm việc điều trị động kinh hoặc rối loạn tâm thần lưỡng cực phải được giám sát bởi bác sĩ có kinh nghiệm.
Cân nhắc các trị liệu thay thế khi bệnh nhân nữ mang thai hoặc có kế hoạch mang thai đang điều trị bằng valproate. Tiến hành rà soát thường quy nhu cầu điều trị và tái đánh giá cân bằng lợi ích/nguy cơ đối với việc điều trị valproate cho trẻ vị thành niên nữ và phụ nữ, bao gồm cả thời gian dậy thì và chuẩn bị mang thai.
Thông báo cho bệnh nhân về nguy cơ của việc sử dụng thuốc valproate trong thai kỳ.
Đối với điều trị bệnh đau nửa đầu (ở một số nước mà chỉ định này được cấp phép):
Chống chỉ định kê đơn valproate cho bệnh nhân nữ đang mang thai hoặc trong độ tuổi có thể mang thai nếu không sử dụng biện pháp tránh thai có hiệu quả.
Phải loại trừ trường hợp mang thai trước khi bắt đầu điều trị đau nửa đầu bằng valproate trên bệnh nhân nữ .
Dừng điều trị valproate trong trường hợp mang thai hoặc dự định mang thai.
Đảm bảo rằng bệnh nhân nữ biết được tầm quan trọng của biện pháp tránh thai trong suốt thời gian điều trị.
Thông báo cho bệnh nhân về nguy cơ của việc sử dụng thuốc valproate trong thai kỳ.
Cơ quan Quản lý Dược phẩm Úc (TGA)
Gần đây, Cơ quan Quản lý Dược phẩm Úc (TGA) cũng đã cập nhật thông tin liên quan giữa việc dùng valproate trong thời kỳ mang thai và suy giảm nhận thức ở trẻ em trên tờ Thông tin sản phẩm của các chế phẩm chứa valproate hiện hành ở Úc. Trong mục dùng thuốc trong thai kỳ đã được bổ sung cảnh báo về mối liên quan giữa rối loạn phổ tự kỷ và nguy cơ rối loạn phát triển theo độ tuổi ở trẻ em với phơi nhiễm valproate trong thai kỳ.
Cơ quan Quản lý Dược Phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA)
Ngày 05/06/2013, Cơ quan Quản lý Dược Phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) cũng đã đưa ra khuyến cáo tới nhân viên y tế và cộng đồng về việc chống chỉ định các thuốc chống động kinh valproate (bao gồm natri valproate, acid valproic và natri divalproex) dùng dự phòng đau nửa đầu ở phụ nữ có thai với lý do nguy cơ giảm chỉ số IQ trên trẻ bị phơi nhiễm valproate trong thai kỳ. FDA đã chuyển từ mức D (lợi ích của thuốc ở mức chấp nhận được bên cạnh nguy cơ thuốc gây ra trên phụ nữ mang thai) sang mức X (nguy cơ của thuốc vượt trội rõ ràng so với lợi ích thuốc mang lại trên phụ nữ mang thai) đối với cảnh báo cho phụ nữ mang thai trên nhãn của các thuốc valproate đối với chỉ định dự phòng đau nửa đầu. Tuy mức độ cảnh báo cho phụ nữ mang thai đối với chỉ định điều trị động kinh và rối loạn lưỡng cực vẫn giữ nguyên mức D nhưng FDA cũng khuyến cáo chỉ nên kê đơn valproate trong trường hợp các thuốc khác không đạt được hiệu quả điều trị mong muốn.
Trước đó, vào tháng 06/2011, FDA đã từng thông báo về nguy cơ của valproate sử dụng trên đối tượng phụ nữ mang thai và yêu cầu các công ty dược phẩm có chế phẩm chứa valproate sửa đổi nhãn liên quan tới kết quả kiểm tra khả năng nhận thức của trẻ tuổi lên 3 phơi nhiễm với valproate trong thai kỳ thấp hơn so với trẻ phơi nhiễm với các thuốc chống động kinh khác. Tuy nhiên, sự phơi nhiễm thuốc valproate tại giai đoạn nào của thai kỳ gây ảnh hưởng xấu lên khả năng nhận thức và chỉ số IQ của trẻ vẫn chưa biết rõ.
FDA cũng khuyến cáo phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đang sử dụng valproate cần sử dụng các biện pháp tránh thai thích hợp. Trường hợp có thai khi đang dùng thuốc, bệnh nhân không nên ngừng thuốc mà không tham khảo ý kiến bác sĩ do việc ngừng thuốc đột ngột có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng, thậm chí đe dọa tính mạng. Trong trường hợp bệnh nhân đang mang thai điều trị động kinh bằng valproate, việc ngừng thuốc đột ngột có thể dẫn đến cơn động kinh kéo dài gây nguy hiểm cho cả người mẹ và thai nhi, thậm chí tử vong.
FDA đã yêu cầu các công ty dược phẩm sửa đổi thông tin trên nhãn đối với các thuốc valproate theo cảnh báo mới nhất, đồng thời, FDA vẫn tiếp tục đánh giá những dữ liệu về nguy cơ của valproate sử dụng trong thai kỳ và tiếp tục cập nhật tới nhân viên y tế và cộng đồng.
Các khuyến cáo của các Cơ quan Quản lý Dược phẩm nói trên đều dựa trên kết quả của nghiên cứu NEAD (Neurodevelopmental Effects of Antiepileptic Drugs). Nghiên cứu này chỉ ra nguy cơ đối với vấn đề phát triển theo độ tuổi của trẻ trước khi tới trường đã từng phơi nhiễm valproate trong thai kỳ bao gồm chậm đi, chậm nói, trí nhớ kém, khó khăn trong việc giao tiếp ngôn ngữ và kém thông minh (tỷ lệ lên tới 30 - 40%). Đối tượng này có chỉ số IQ trung bình tại thời điểm 6 tuổi thấp hơn so với những trẻ phơi nhiễm với các thuốc chống động kinh khác. Tùy theo loại thuốc chống động kinh được so sánh với valproate, sự chênh lệch chỉ số IQ dao động trong khoảng từ 6 - 8 điểm. Đồng thời, dữ liệu từ nghiên cứu cũng chỉ ra nguy cơ gây quái thai do phơi nhiễm valproate trong thai kỳ có tỷ lệ lên tới 11% (biến dạng cột sống và hở hàm ếch) so với tỷ lệ nền 2 - 3% nói chung. Bên cạnh đó, trẻ em từng phơi nhiễm valproate trong thai kỳ cũng có nguy cơ mắc rối loạn tự kỷ cao gấp 3 lần so với nguy cơ nền và nguy cơ tự kỷ thời niên thiếu cao gấp 5 lần so với nguy cơ nền. Các dữ liệu còn hạn chế cũng chỉ ra rằng đối tượng này có thể phát triển triệu chứng của rối loạn tăng động giảm chú ý (attention deficit hyperactivity disorder - ADHD).
DSTH. Huỳnh Thị Mỹ Liên - Sưu tầm từ nguồn Cảnh giác dược