LIÊN KẾT CƠ QUAN - BAN NGÀNH

QR-code-BNV

 

 

Chung nhan Tin Nhiem Mang

  07/04/2020 20:15        

BẢN TIN THUỐC SỐ 1 - 2017

 

http://sv1.upsieutoc.com/2017/05/24/image003.jpg

Bệnh Viện Chuyên khoa Tâm Thần Khánh Hòa

(Lưu hành nội bộ)

http://sv1.upsieutoc.com/2017/05/24/image005.jpg

Bản tin số 1

THÔNG TIN THUỐC

Chuyên đề: Những cảnh báo cần chú ý khi sử dụng các thuốc điều trị trầm cảm

Trong số này

1. Những cảnh báo cần chú ý khi sử dụng sertraline (Zoloft) ………………….1

BSCKI. Võ Hữu Thắng

Nguồn: Mims. com

2. Những cảnh báo cần chú ý khi sử dụng quetiapine (Seroquel)……………….6

BSCKI. Lê Văn Hào

Nguồn: VIDAL 2014/2015

3. Những cảnh báo cần chú ý khi sử dụng venlafaxine (Efexor)........................12

DS. Phan Tấn Thanh

Nguồn: VIDAL 2012/2013 và VIDAL 2014/2015

4. Cảnh báo an toàn thuốc ……………………………………………………..16

          Cung cấp thông tin liên quan đến tính an toàn của thuốc giảm đau nhóm opioide thuốc điều trị ĐTĐ tuýp 2 chứa metformin thuốc chứa saxagliptin, alogliptin, thuốc kháng sinh nhóm fluoroquinolone và thuốc chứa ketoconazole viên nén dạng uống.

DS. Phan Tấn Thanh

Nguồn: canhgiacduoc.org.vn

 

http://sv1.upsieutoc.com/2017/05/24/image007.gif

 

 

 

 

 

 

 

 

1. NHỮNG CẢNH BÁO CẦN CHÚ Ý KHI SỬ DỤNG SERTRALIN (ZOLOFT)

 

BSCKI. Võ Hữu Thắng

Nguồn: Mims. com

http://sv1.upsieutoc.com/2017/05/24/image008.jpg

CẢNH BÁO:

       Sự phát triển của các hội chứng tiềm tàng đe dọa đến tính mạng như hội chứng serotonin (SS) hay hội chứng rối loạn thần kinh do dùng thuốc an thần (NMS) đã được báo cáo khi dùng các thuốc ức chế chọn lọc sự thu hồi serotonin (SSRIs), trong đó có sertraline.

          Nguy cơ gặp phải hội chứng SS hay hội chứng NMS khi dùng các thuốc SSRIs tăng lên khi sử dụng đồng thời các thuốc làm tăng serotonin (bao gồm triptans và fentanyl) với các thuốc làm giảm thải trừ SS (bao gồm các thuốc ức chế MAOI), các thuốc an thần và các thuốc đối kháng dopamin. Các triệu chứng của hội chứng SS có thể bao gồm các thay đổi trạng thái tinh thần (ví dụ: lo âu, ảo giác, hôn mê), mất ổn định hệ thần kinh giao cảm (ví dụ: tim đập nhanh, huyết áp không ổn định, sốt cao), bất thường hoạt động thần kinh cơ (ví dụ: tăng phản xạ, mất khả năng kết hợp) và/hoặc các triệu chứng tiêu hóa (ví dụ: buồn nôn, nôn, ỉa chảy). Một vài dấu hiệu của hội chứng SS, gồm sốt cao, cứng cơ, mất ổn định hệ thần kinh giao cảm cùng thay đổi nhanh các dấu hiệu sự sống và thay đổi trạng thái tinh thần tương tự như ở hội chứng NMS.

          Nên theo dõi sự xuất hiện các triệu chứng và dấu hiệu của hội chứng SS hay hội chứng NMS ở bệnh nhân.

Các thuốc ức chế men monoamin oxidase

          Các trường hợp có phản ứng nghiêm trọng đôi khi dẫn đến tử vong đã được báo cáo ở các bệnh nhân sử dụng sertraline phối hợp với thuốc ức chế men monoamin oxidase (MAOI), bao gồm các thuốc ức chế chọn lọc MAOI, như Selegilin, các thuốc ức chế có hồi phục MAOI như Moclobemid và các thuốc ức chế MAOI, như linezoid [một kháng sinh ức chế thuận nghịch không chọn lọc MAOI] và xanh methylen. Vài trường hợp được mô tả với các đặc tính tương tự như hội chứng ngộ độc SS với các triệu chứng bao gồm: tăng thân nhiệt, cứng đơ, rung giật cơ, mất ổn định hệ thần kinh thực vật kèm theo biến đổi nhanh chóng các dấu hiệu quan trọng của sự sống, các thay đổi về trạng thái tâm thần bao gồm lú lẫn, dễ bị kích thích và quá kích động dẫn tới mê sảng và hôn mê. Do đó sertraline không được sử dụng phối hợp cùng với các thuốc ức chế men MAOI hoặc trong vòng 14 ngày sau khi ngừng điều trị với các thuốc này. Tương tự, phải dừng điều trị với sertraline tối thiểu 14 ngày trước khi bắt đầu điều trị với các thuốc ức chế MAOI.

Các thuốc tác động trên hệ serotonergic khác

          Dùng đồng thời sertraline với các thuốc khác, mà làm tăng cường tác dụng dẫn truyền thần kinh trên hệ serotonergic, như là tryptophan, fenfluramin, fentanyl, các chất chủ vận trên thụ thể 5-hydroxy tryptamin (5-HT), hoặc thuốc thảo dược St. John’s wort (hypericum perforatum) nên được tiến hành cẩn thận và nên tránh bất cứ khi nào có thể được, do có nguy cơ tương tác về dược lực học.

Chuyển đổi giữa các thuốc ức chế chọn lọc sự thu hồi serotonin (SSRIs), các thuốc chống trầm cảm hoặc các thuốc chống ám ảnh

          Có rất ít các nghiên cứu có kiểm chứng về thời gian tối ưu cho việc chuyển đổi điều trị từ các thuốc ức chế chọn lọc SSRIs, các thuốc chống trầm cảm hoặc các thuốc chống ám ảnh khác sang sertraline. Nên theo dõi và có các đánh giá thận trọng khi chuyển đổi, đặc biệt là từ các thuốc có tác dụng kéo dài như fluoxetin. Khoảng thời gian cần thiết để làm sạch thuốc ra khỏi cơ thể trước khi chuyển đổi từ một thuốc ức chế chọn lọc SSRIs sang một thuốc khác vẫn chưa được thiết lập.

Tăng hưng cảm/giảm hưng cảm

          Trong giai đoạn thử nghiệm trước khi đưa ra thị trường, chứng giảm hưng cảm hoặc tăng hưng cảm xuất hiện ở khoảng 0,4% bệnh nhân điều trị bằng sertralin. Tăng hưng cảm/giảm hưng cảm cũng được báo cáo ở một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân bị rối loạn tình cảm nặng, được điều trị bằng các thuốc chống trầm cảm và các thuốc chống ám ảnh khác trên thị trường.

Cơn động kinh

          Các cơn động kinh là nguy cơ tiềm tàng với việc sử dụng các thuốc chống trầm cảm và các thuốc chống ám ảnh. Cơn động kinh được báo cáo ở khoảng 0,08% các bệnh nhân điều trị với sertraline trong chương trình phát triển dành cho bệnh nhân trầm cảm. Không có trường hợp lên cơn động kinh nào được báo cáo ở các bệnh nhân được điều trị với sertraline trong chương trình phát triển dành cho bệnh nhân bị chứng rối loạn hoảng sợ. Có 4 trong khoảng 1800 bệnh nhân (0,2%) sử dụng sertraline trong chương trình phát triển dành cho bệnh nhân bị rối loạn xung lực cưỡng bức ám ảnh (OCD) bị lên cơn động kinh. 3 trong số các bệnh nhân này là thanh niên, hai trong số họ bị chứng rối loạn cơn động kinh và một người có tiền sử gia đình bị chứng rối loạn cơn động kinh, trong chương trình đó không ai trong số họ đang sử dụng các thuốc chống co giật. Ở tất cả các trường hợp này mối liên hệ giữa các cơn động kinh và sertralin là chưa rõ ràng. Tuy nhiên do sertraline chưa được đánh giá ở các bệnh nhân bị chứng rối loạn cơn động kinh nên tránh sử dụng nó cho các bệnh nhân bị bệnh động kinh không ổn định, đối với các bệnh nhân động kinh đã được kiểm soát nên được theo dõi cẩn thận. Nên ngừng sử dụng sertralin ở bất kì bệnh nhân nào có phát triển cơn động kinh.

Tự tử

          Do khả năng bệnh nhân muốn tự tử gắn liền với các bệnh nhân trầm cảm và có thể tồn tại cho đến khi có được sự thuyên giảm đáng kể, nên cần giám sát chặt chẽ các bệnh nhân trong giai đoạn khởi đầu điều trị.

Chảy máu/xuất huyết bất thường

          Đã có những báo cáo về chảy máu bất thường trên da như vết bầm máu hay ban xuất huyết khi dùng các thuốc ức chế chọn lọc SSRIs. Cần thận trọng ở những bệnh nhân dùng các thuốc ức chế chọn lọc SSRIs, đặc biệt khi dùng đồng thời với những thuốc ảnh hưởng đếnchức năng tiểu cầu (như các thuốc an thần không điển hình và phenothiazin, hầu hết các thuốc chống trầm cảm 3 vòng, aspirin và các thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs) cũng như ở những bệnh nhân có tiền sử rối loạn chảy máu.

Giảm natri máu

          Có thể xuất hiện giảm natri máu do điều trị bằng các thuốc ức chế chọn lọc SSRIs hay các thuốc ức chế tái hấp thu SNRIs, trong đó có sertraline. Trong nhiều trường hợp, giảm natri máu dường như do hội chứng tiết bất thường của hormon làm giảm bài niệu (SIADH). Đã có những báo cáo mức Na huyết thanh thấp hơn 110mmol/l. Bệnh nhân cao tuổi có nguy cơ giảm natri máu cao hơn khi dùng các thuốc ức chế chọn lọc SSRIs và các thuốc ức chế SNRIs. Những bệnh nhân dùng thuốc lợi tiểu hoặc thuốc làm giảm thể tích dịch cũng có thể gặp nguy cơ cao hơn. Nên xem xét ngừng sertraline ở những bệnh nhân có triệu chứng giảm natri máu và tiến hành phương pháp điều trị phù hợp. Các dấu hiệu và triệu chứng của giảm natri máu bao gồm đau đầu, kém tập trung, giảm trí nhớ, lẫn lộn, yếu ớt và mất ổn định có thể dẫn tới suy sụp. Các dấu hiệu và triệu chứng nặng hơn và/hoặc cấp tính hơn gồm ảo giác, ngất, co giật, hôn mê, ngừng hô hấp, và tử vong. Có mối quan hệ rõ ràng về tính chất gây bệnh giữa rối loạn cưỡng bức ám ảnh với trầm cảm, rối loạn hoảng sợ và trầm cảm, rối loạn căng thẳng sau chấn thương và trầm cảm, ám ảnh xã hội và trầm cảm, do vậy cần theo dõi khi điều trị bệnh nhân trầm cảm, phải phòng ngừa khi điều trị bệnh nhân OCD, rối loạn hoảng sợ, PTSD hoặc ám ảnh xã hội.

Gãy xương

          Các nghiên cứu dịch tễ cho thấy nguy cơ gãy xương tăng ở các bệnh nhân dùng thuốc ức chế SSRIs bao gồm cả sertraline. Cơ chế dẫn đến nguy cơ này vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ.

Sử dụng ở bệnh nhân suy gan

          Trong cơ thể, sertraline được chuyển hoá phần lớn tại gan. Một nghiên cứu về dược động học sử dụng đa liều ở các đối tượng bị xơ gan nhẹ và ổn định đã cho thấy thời gian bán thải bị kéo dài và nồng độ đỉnh trong huyết tương (Cmax) bị tăng lên khoảng gấp 3 lần so với các đối tượng bình thường. Không có sự khác biệt đáng kể về sự gắn kết protein huyết tương được quan sát giữa hai nhóm. Nên khởi đầu thận trọng khi sử dụng sertraline ở các bệnh nhân bị bệnh gan. Nên sử dụng liều thấp hơn hoặc tăng khoảng cách giữa các liều ở các bệnh nhân bị suy gan.

Sử dụng ở các bệnh nhân suy thận

          Phần lớn sertraline bị chuyển hoá trong cơ thể, chỉ một lượng nhỏ ở dạng chưa biến đổi được thải trừ qua nước tiểu. Trong các nghiên cứu ở các bệnh nhân có mức độ suy thận từ nhẹ đến vừa (độ thanh thải creatinin 30-60ml/phút) hoặc từ vừa tới nặng (độ thanh thải creatinin 10-29ml/phút), các thông số dược động học khi sử dụng đa liều sertralin (diện tích dưới đường cong trong 24 giờ (AUC0-24 hoặc nồng độ đỉnh trong huyết tương (Cmax)) không khác biệt đáng kể so với nhóm chứng. Thời gian bán thải tương tự và không có sự khác biệt về mức độ gắn kết với protein huyết tương ở tất cả các nhóm nghiên cứu. Nghiên cứu này chỉ ra rằng, do sertraline ít được thải trừ qua thận, nên không bắt buộc phải điều chỉnh liều dùng theo các mức độ suy thận. Sertraline dạng cao uống (khi chưa pha loãng) chứa 12% cồn.

Tiểu đường/mất khả năng kiểm soát đường huyết

          Đã có những báo cáo mới bị tiểu đường ở những bệnh nhân dùng các thuốc ức chế chọn lọc SSRIs bao gồm sertraline. Đã có báo cáo về mất khả năng kiểm soát đường huyết gồm tăng đường huyết và hạ đường huyết ở những bệnh nhân bị hay không bị tiểu đường trước đó. Do đó, cần theo dõi các dấu hiệu và triệu chứng thay đổi đường huyết ở những bệnh nhân này. Nên theo dõi chặt chẽ sự kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường và điều chỉnh liều insulin và/hoặc các thuốc uống làm giảm đường huyết được sử dụng đồng thời nếu cần thiết.

Các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm

          Đã có những báo cáo dương tính giả với các benzodiazepin trong các thử nghiệm sàng lọc đánh giá miễn dịch nước tiểu ở các bệnh nhân đang uống sertraline. Điều này là do sự thiếu đặc hiệu của các thử nghiệm sàng lọc. Sau khi ngừng điều trị với sertralin, kết quả thử nghiệm dương tính giả có thể xảy ra trong vài ngày. Thử nghiệm xác nhận như sắc ký khí/đo phổ khối lượng sẽ giúp phân biệt sertraline với các benzodiazepin.

Glaucoma góc đóng

          Các thuốc ức chế chọn lọc SSRIs như sertraline có thể ảnh hưởng lên kích thước đồng tử làm giãn đồng tử. Tác dụng làm giãn đồng tử này có thể gây hẹp góc mắt dẫn đến tăng áp lực nội nhãn và glaucoma góc đóng, đặc biệt trên bệnh nhân có khuynh hướng trước đó. Vì thế, sertraline nên được sử dụng thận trọng trên bệnh nhân bị glaucoma góc đóng hay có tiền sử glaucoma.

Ảnh hưởng trên khả năng lái xe và vận hành máy móc

          Các nghiên cứu dược lý học lâm sàng đã chứng minh rằng sertraline không có ảnh hưởng trên khả năng hoạt động tâm thần. Tuy nhiên, vì các thuốc hướng thần nói chung có thể làm suy giảm khả năng làm việc về trí tuệ hay cơ bắp cần thiết cho những công việc có nguy cơ tiềm ẩn cao như lái xe hay vận hành máy. Theo đó, bệnh nhân nên được cảnh báo về điều này.

 

 

2. NHỮNG CẢNH BÁO CẦN CHÚ Ý KHI SỬ DỤNG QUETIAPINE (SEROQUEL)

BSCKI. Lê Văn Hào

Nguồn: VIDAL 2014/2015

 

http://sv1.upsieutoc.com/2017/05/24/image010.png

CẢNH BÁO:

          Seroquel XR được chỉ định trong điều trị bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực và điều trị hỗ trợ các cơn trầm cảm lớn ở bệnh nhân bị rối loạn trầm cảm chủ yếu (MDD), rối loạn lo âu toàn thể (GAD). Mặc dù hiệu quả và tính an toàn dài hạn đã được đánh giá trên bệnh nhân người lớn trong đơn trị liệu, nhưng hiệu quả và tính an toàn dài hạn ở bệnh nhân MDD chưa được đánh giá trong điều trị phối hợp.

Trẻ em và trẻ vị thành niên (10-17 tuổi)

          Không khuyến cáo sử dụng Seroquel XR cho trẻ em và trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi do chưa có dữ liệu hỗ trợ cho việc sử dụng thuốc cho bệnh nhân ở độ tuổi này. Các thử nghiệm lâm sàng với Seroquel XR cho thấy ngoài các dữ liệu an toàn đối với người lớn đã được xác định, các tác dụng ngoại ý xảy ra ở trẻ em và trẻ vị thành niên với tần suất cao hơn so với ở người lớn (tăng cảm giác thèm ăn, tăng nồng độ prolactin huyết thanh và các triệu chứng ngoại tháp (EPS) và xác định một tác dụng ngoại ý mới (tăng huyết áp) chưa ghi nhận. Các thay đổi về xét nghiệm chức năng tuyến giáp cũng được ghi nhận ở trẻ em và trẻ vị thành niên. Ngoài ra, các ảnh hưởng về an toàn dài hạn của trị liệu Seroquel XR đối với sự tăng trưởng và trưởng thành chỉ mới được nghiên cứu trong giới hạn 26 tuần. Chưa rõ ảnh hưởng dài hạn đối với sự phát triển nhận thức và hành vi. Trong các nghiên cứu lâm sàng có đối chứng với giả dược sử dụng Seroquel XR cho bệnh nhân trẻ em và trẻ vị thành niên, Seroquel XR liên quan đến tăng tần suất tác dụng EPS so với giả dược ở bệnh nhân điều trị tâm thần phân liệt và cơn hưng cảm do rối loạn lưỡng cực.

Tự tử/có ý nghĩ tự tử hoặc tình trạng lâm sàng xấu đi

          Trầm cảm liên quan đến tăng nguy cơ có ý nghĩ tự tử, tự hủy hoại và tự tử (các triệu chứng liên quan đến tự tử). Nguy cơ này tồn tại kéo dài cho đến khi bệnh thuyên giảm đáng kể. Do chưa có thể cải thiện trong vài tuần đầu điều trị hoặc lâu hơn, bệnh nhân cần được theo dõi cẩn thận cho đến khi bệnh được cải thiện đáng kể. Kinh nghiệm lâm sàng cho thấy nguy cơ tự tử có thể gia tăng ở giai đoạn sớm trong quá trình hồi phục bệnh. Ngoài ra, bác sĩ điều trị nên xem xét nguy cơ có thể xảy ra các triệu chứng liên quan đến tự tử sau khi ngưng đột ngột điều trị Seroquel XR. Bệnh nhân có tiền sử các hành vi liên quan đến tự tử, hoặc khả năng có ý nghĩ tự tử trước khi bắt đầu điều trị được ghi nhận, nên được theo dõi chặt chẽ trong quá trình điều trị. Một phân tích gộp các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng với giả dược thực hiện với các thuốc chống trầm cảm trên bệnh nhân người lớn bị các rối loạn về tâm thần cho thấy ở bệnh nhân dưới 25 tuổi có sự gia tăng nguy cơ hành vi tự tử ở nhóm sử dụng các thuốc chống trầm cảm so với nhóm giả dược. Kết hợp với điều trị bằng thuốc, đặc biệt khi bắt đầu điều trị và khi thay đổi liều, cần theo dõi bệnh nhân chặt chẽ nhất là các bệnh nhân có nguy cơ cao. Bệnh nhân (và những người chăm sóc bệnh nhân) nên được cảnh báo về sự cần thiết phải theo dõi tất cả các tình trạng lâm sàng xấu đi, hành vi hoặc ý nghĩ tự tử hoặc thay đổi hành vi bất thường và tìm hỗ trợ y tế ngay khi các triệu chứng này xuất hiện. Trong các thử nghiệm lâm sàng ngắn hạn, có đối chứng với giả dược trên các bệnh nhân bị các cơn trầm cảm lớn trong rối loạn lưỡng cực, sự tăng nguy cơ các biến cố liên quan đến tự tử đã được ghi nhận ở các bệnh nhân người lớn (dưới 25 tuổi) điều trị với Seroquel XR so với bệnh nhân sử dụng giả dược (3,0% so với 0%, theo thứ tự). Trong các nghiên cứu lâm sàng trên bệnh nhân bị MDD, tần suất các biến cố liên quan đến tự tử đã được ghi nhận ở nhóm bệnh nhân người lớn (dưới 25 tuổi) là 2,1% (3/44) ở nhóm điều trị với Seroquel XR và 1,3% (1/75) ở nhóm sử dụng giả dược.

EPS

          Trong các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng với giả dược, Seroquel XR liên quan đến sự tăng tần suất các triệu chứng EPS so với giả dược ở bệnh nhân người lớn điều trị cơn trầm cảm lớn trong rối loạn lưỡng cực và MDD. Sử dụng Seroquel XR có thể gây chứng bồn chồn, biểu hiện bởi sự khó chịu chủ quan hoặc bồn chồn không yên và cần thay đổi vị trí cơ thể liên tục kèm theo không thể ngồi hoặc đứng yên, triệu chứng này xuất hiện chủ yếu trong vài tuần đầu điều trị. Ở bệnh nhân xảy ra các triệu chứng này, có thể bất lợi khi tăng liều.

Rối loạn vận động muộn (tardive dyskinesia)

          Rối loạn vận động muộn là một hội chứng các vận động rối loạn, không chủ ý và có thể không hồi phục có thể xảy ở các bệnh nhân điều trị với các thuốc chống loạn thần, kể cả Seroquel XR. Khi có bất kỳ dấu hiệu hay triệu chứng rối loạn vận động tự ý muộn nào, nên cân nhắc việc giảm liều hay ngưng thuốc Seroquel XR. Các triệu chứng rối loạn vận động muộn có thể gia tăng hoặc xấu đi sau khi ngưng trị liệu.

Buồn ngủ và chóng mặt

          Điều trị với Seroquel XR có thể gây buồn ngủ và các triệu chứng liên quan, như ngầy ngật. Trong các nghiên cứu lâm sàng về điều trị bệnh nhân trầm cảm do rối loạn lưỡng cực và MDD, buồn ngủ thường xuất hiện trong 3 ngày đầu điều trị và chủ yếu ở mức độ nhẹ đến trung bình. Có thể bị buồn ngủ nhiều cần tái khám thường xuyên hơn, trong vòng hai tuần kể từ khi có triệu chứng buồn ngủ hoặc cho đến khi triệu chứng này được cải thiện và có thể cần cân nhắc việc ngưng điều trị. Điều trị với Seroquel XR có thể gây hạ huyết áp thế đứng và chóng mặt thường xuất hiện trong giai đoạn chỉnh liều ban đầu giống như đối với buồn ngủ. Buồn ngủ có thể làm tăng nguy cơ xảy ra các tổn thương bất ngờ (té ngã) đặc biệt ở đối tượng bệnh nhân cao tuổi. Do đó, cần khuyên bệnh nhân cẩn thận cho đến khi quen với các tác dụng có thể xảy ra của thuốc.

Trên tim mạch

          Seroquel XR nên được sử dụng thận trọng ở bệnh nhân mắc bệnh tim mạch, bệnh mạch máu não hay những tình trạng có thể dẫn đến hạ huyết áp. Seroquel XR có thể gây hạ huyết áp thế đứng, đặc biệt trong giai đoạn chỉnh liều ban đầu và vì thế cần giảm liều hoặc chỉnh liều từ từ nếu có tình trạng này xảy ra. Có thể xem xét chế độ chỉnh liều chậm hơn cho bệnh nhân đang bị bệnh tim mạch.

Co giật

          Trong các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng, không có sự khác biệt về tần suất cơn co giật giữa các bệnh nhân sử dụng Seroquel XR và nhóm giả dược. Chưa có dữ liệu về tần suất cơn co giật trên bệnh nhân có tiền sử rối loạn co giật. Tương tự như các thuốc chống loạn thần khác, cần thận trọng khi sử dụng để điều trị cho bệnh nhân có tiền sử co giật.

Hội chứng ác tính do thuốc an thần

          Hội chứng ác tính do thuốc an thần có liên quan đến việc điều trị bằng các thuốc chống loạn thần, kể cả Seroquel XR. Các biểu hiện lâm sàng bao gồm tăng thân nhiệt quá mức, thay đổi trạng thái tâm thần, co cứng cơ, hệ thần kinh tự chủ không ổn định và tăng creatin phosphokinase. Trong trường hợp này, nên ngưng dùng Seroquel XR và có biện pháp điều trị thích hợp.

Giảm bạch cầu trung tính trầm trọng

          Giảm bạch cầu trung tính trầm trọng (lượng bạch cầu trung tính < 0,5 x 109/L) hiếm khi được ghi nhận trong các thử nghiệm lâm sàng về Seroquel XR. Hầu hết các trường hợp giảm bạch cầu trung tính trầm trọng xảy ra trong vài tháng đầu điều trị với Seroquel XR. Không có mối liên hệ rõ rệt với liều dùng. Tình trạng giảm bạch cầu và/hoặc giảm bạch cầu trung tính trở lại bình thường sau khi ngưng điều trị với Seroquel XR. Các yếu tố nguy cơ có thể gây ra giảm bạch cầu trung tính bao gồm: lượng bạch cầu thấp trước đó và tiền sử giảm bạch cầu trung tính do thuốc. Nên ngưng chỉ định Seroquel XR ở bệnh nhân có số lượng bạch cầu trung tính < 1,0 x 109/L. Nên theo dõi các dấu hiệu và triệu chứng nhiễm trùng và lượng bạch cầu trung tính ở các bệnh nhân này (cho đến khi lượng bạch cầu trung tính vượt quá 1,5 x 109/L).

Tương tác thuốc

          Sử dụng đồng thời Seroquel XR với các thuốc gây cảm ứng men gan mạnh như carbamazepine hay phenytoin có thể làm giảm đáng kể nồng độ Seroquel XR trong huyết tương, và vì thế làm giảm hiệu quả trị liệu. Ở các bệnh nhân đang sử dụng các thuốc gây cảm ứng men gan, việc chỉ định Seroquel XR chỉ nên thực hiện sau khi bác sĩ trị liệu cân nhắc lợi ích khi trị liệu bằng Seroquel XR lớn hơn các nguy cơ do ngưng sử dụng thuốc gây cảm ứng men gan. Điều quan trọng là nên ngưng từ từ thuốc gây cảm ứng men gan, và nếu cần thì thay thế bằng một thuốc khác không gây cảm ứng men gan (ví dụ như natri valproate).

Cân nặng

          Tăng cân đã được ghi nhận ở bệnh nhân điều trị với Seroquel XR, và nên được theo dõi và kiểm soát lâm sàng thích hợp theo hướng dẫn sử dụng thuốc chống loạn thần.

Tăng glucose huyết

          Đã ghi nhận những trường hợp hiếm gặp tăng glucose huyết và/hay xuất hiện hoặc nặng thêm bệnh đái tháo đường đôi khi liên quan đến nhiễm keto-acid hoặc hôn mê, kể cả vài trường hợp gây tử vong. Trong vài trường hợp, tăng cân trước đó đã được ghi nhận là yếu tố nguy cơ. Cần có chế độ theo dõi lâm sàng thích hợp theo hướng dẫn sử dụng các thuốc chống loạn thần. Bệnh nhân điều trị với bất kỳ thuốc chống loạn thần nào kể cả Seroquel XR nên được theo dõi các dấu hiệu và triệu chứng tăng glucose huyết (như khát nhiều, đa niệu, ăn nhiều và mệt mỏi) và bệnh nhân đái tháo đường hoặc có các yếu tố nguy cơ gây đái tháo đường nên được theo dõi định kỳ để tránh tình trạng kiểm soát glucose xấu đi. Nên theo dõi cân nặng định kỳ.

Lipide

          Tăng triglyceride, LDL và cholesterol toàn phần, và giảm HDL cholesterol đã được ghi nhận qua các thử nghiệm lâm sàng với Seroquel XR. Các thay đổi về lipid cần phải được xử trí khi có yêu cầu lâm sàng.

Nguy cơ chuyển hóa

          Với các thay đổi về cân nặng, glucose huyết có thể gặp tình trạng các nguy cơ về chuyển hóa xấu đi, vì vậy nên được kiểm soát lâm sàng thích hợp.

Kéo dài khoảng QT

          Trong các thử nghiệm lâm sàng và sử dụng theo Tóm tắt đặc tính sản phẩm, không có mối liên quan giữa Seroquel XR và sự gia tăng kéo dài khoảng QT tuyệt đối. Sau khi thuốc lưu hành trên thị trường, kéo dài khoảng QT đã được ghi nhận khi sử dụng Seroquel XR ở liều điều trị và trong trường hợp quá liều. Cũng như các thuốc chống loạn thần khác, cần thận trọng khi chỉ định Seroquel XR cho bệnh nhân bị bệnh tim mạch hay có tiền sử gia đình có dấu hiệu kéo dài khoảng QT. Cần thận trọng khi chỉ định quetiapin cùng với các thuốc gây kéo dài khoảng QT, hoặc sử dụng đồng thời với các thuốc an thần khác, đặc biệt ở người cao tuổi, ở bệnh nhân có hội chứng kéo dài QT bẩm sinh, suy tim sung huyết, phì đại tim, hạ kali hay magiê huyết.

Hội chứng cai thuốc

          Các triệu chứng cai thuốc cấp tính như buồn nôn, nôn, mất ngủ, nhức đầu, tiêu chảy, chóng mặt và kích thích có thể xảy ra sau khi ngưng đột ngột Seroquel XR liều cao. Vì vậy, nên ngưng thuốc từ từ trong khoảng thời gian tối thiểu một đến hai tuần.

Bệnh nhân cao tuổi bị rối loạn tâm thần liên quan đến sa sút trí tuệ    

          Seroquel XR chưa được phê chuẩn để điều trị bệnh nhân rối loạn tâm thần liên quan đến sa sút trí tuệ.  Trong các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, đối chứng với giả dược, nguy cơ biến chứng mạch máu não xảy ra cao gấp 3 lần trong nhóm bệnh nhân sa sút trí tuệ sử dụng các thuốc chống loạn thần không điển hình. Cơ chế làm tăng nguy cơ này chưa được hiểu rõ. Sự gia tăng nguy cơ về biến chứng mạch máu não cũng không thể loại trừ cho các nhóm thuốc chống loạn thần khác hoặc trên nhóm đối tượng bệnh nhân khác. Seroquel XR nên được dùng thận trọng cho nhóm đối tượng có các yếu tố nguy cơ đột quỵ.
Trong một phân tích tổng hợp (meta-analysis), các thuốc chống loạn thần không điển hình làm tăng nguy cơ tử vong ở các bệnh nhân cao tuổi bị loạn thần liên quan đến sa sút trí tuệ so với giả dược đã được ghi nhận. Tuy nhiên, trong hai nghiên cứu kéo dài trong thời gian 10 tuần trên cùng nhóm dân số bệnh nhân (n=710; tuổi trung bình: 83; độ tuổi biến thiên từ 56-99), tần suất tử vong ở nhóm bệnh nhân điều trị với Seroquel XR là 5,5% so với 3,2% ở nhóm giả dược. Số bệnh nhân tử vong do nhiều nguyên nhân khác nhau trong hai thử nghiệm này phù hợp với dự đoán. Các dữ liệu này không cho thấy mối liên quan nhân quả giữa trị liệu với Seroquel XR và tử vong ở bệnh nhân cao tuổi sa sút trí tuệ.

Các tác động trên gan

          Nếu vàng da xảy ra, nên ngưng Seroquel XR.

Bệnh lý đi kèm

          Khó nuốt và viêm phổi hít đã được ghi nhận khi sử dụng Seroquel XR. Mặc dù mối quan hệ nhân quả với viêm phổi hít chưa được thiết lập, Seroquel XR nên được sử dụng thận trọng trên bệnh nhân có nguy cơ viêm phổi hít.

Thuyên tắc tĩnh mạch do huyết khối (VTE)

          Các trường hợp VTE đã được báo cáo khi sử dụng các thuốc chống loạn thần. Vì các bệnh nhân điều trị với các thuốc chống loạn thần thường có các yếu tố nguy cơ mắc phải về VTE, cần xác định tất cả các yếu tố nguy cơ VTE trước và trong quá trình điều trị với quetiapin và tiến hành các biện pháp ngăn ngừa.

          Viêm tụy: Viêm tụy đã được ghi nhận trong các thử nghiệm lâm sàng và sau khi thuốc lưu hành trên thị trường. Trong các báo cáo sau khi thuốc lưu hành trên thị trường, không phải tất cả các trường hợp đều bị các yếu tố nguy cơ gây nhiễu, nhiều bệnh nhân có các yếu tố đã được biết có liên quan đến viêm tụy như tăng triglyceride, sỏi mật và uống rượu.

Lactose

          Viên nén Seroquel XR có chứa lactose. Bệnh nhân có các rối loạn di truyền hiếm gặp như rối loạn dung nạp galactose hoặc bất thường hấp thu glucose-galactose không nên sử dụng thuốc này.

Thông tin bổ sung

          Dữ liệu về trị liệu phối hợp Seroquel XR với divalproex hay lithium trong điều trị các cơn hưng cảm cấp tính từ trung bình đến nặng chưa có nhiều, tuy vậy trị liệu phối hợp này thường được dung nạp tốt. Dữ liệu nghiên cứu cho thấy hiệu quả hiệp lực sau 3 tuần trị liệu. Một nghiên cứu khác lại không chứng minh được tác dụng hiệp lực sau 6 tuần trị liệu. Chưa có dữ liệu nghiên cứu về trị liệu phối hợp trên 6 tuần. 

Ảnh hưởng lên khả năng lái xe và vận hành máy

          Do tác động chủ yếu lên hệ thần kinh trung ương, Seroquel XR có thể ảnh hưởng đến các hoạt động cần tỉnh táo tinh thần. Vì vậy, cần khuyên bệnh nhân không nên lái xe hoặc vận hành máy cho đến khi xác định rõ sự nhạy cảm với thuốc của bản thân.

 

 

3. NHỮNG CẢNH BÁO CẦN CHÚ Ý KHI SỬ DỤNG VENLAFAXINE (EFEXOR)

 

DS. Phan Tấn Thanh

Nguồn: VIDAL 2012/2013 và VIDAL 2014/2015

 

http://sv1.upsieutoc.com/2017/05/26/image012.jpg

 

CẢNH BÁO:

Tự tử/có ý định tự tử hoặc bệnh cảnh lâm sàng xấu đi

          Tất cả các bệnh nhân được điều trị bằng venlafaxine nên được theo dõi cẩn thận và quan sát chặt chẽ các dấu hiệu bệnh cảnh lâm sàng xấu đi và biểu hiện của ý định tự tử. Bệnh nhân, gia đình, và những người chăm sóc bệnh nhân cần được nhắc nhở luôn cảnh giác về sự xuất hiện các dấu hiệu lo âu, kích động, các cơn hoảng loạn, mất ngủ, bứt rứt, thái độ thù địch, hung hăng, bốc đồng, chứng nằm ngồi không yên (akathisia), hưng cảm nhẹ, hưng cảm, các thay đổi bất thường khác trong hành vi, triệu chứng trầm cảm xấu đi, và ý định tự sát, đặc biệt khi bắt đầu điều trị hoặc khi có bất kỳ thay đổi nào về liều hoặc chế độ liều. Nguy cơ tự tử bắt buộc phải được xem xét, đặc biệt ở những bệnh nhân trầm cảm, và nên dùng liều thấp nhất kèm theo giám sát bệnh nhân chặt chẽ để giảm nguy cơ quá liều. Tự tử là một nguy cơ đã được xác định trong bệnh trầm cảm và một số rối loạn tâm thần khác, và bản thân các rối loạn này là yếu tố dự báo mạnh nguy cơ tự tử. Các phân tích gộp từ các thử nghiệm lâm sàng ngắn hạn có đối chứng với giả dược của các thuốc chống trầm cảm (thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin [SSRIs] và các thuốc khác) cho thấy các thuốc này làm tăng nguy cơ tự tử ở trẻ em, trẻ vị thành niên và thanh niên (từ 18-24 tuổi) bị trầm cảm nặng và các rối loạn tâm thần khác. Các nghiên cứu ngắn hạn không cho thấy có sự gia tăng nguy cơ tự tử ở bệnh nhân trên 24 tuổi dùng thuốc chống trầm cảm so với nhóm dùng giả dược; nguy cơ tự tử cũng giảm ở bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên dùng thuốc chống trầm cảm so với nhóm dùng giả dược.

Gãy xương

          Nghiên cứu dịch tễ học cho thấy nguy cơ gãy xương tăng lên ở các bệnh nhân dùng thuốc SSRI bao gồm cả venlafaxine. Cơ chế gây ra nguy cơ này hiện chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn.

Sử dụng thuốc cho trẻ em và thiếu niên

Hiệu quả của thuốc trên bệnh nhân dưới 18 tuổi chưa được xác định rõ. Nên theo dõi thường xuyên cân nặng và đo huyết áp cho trẻ em và thiếu niên sử dụng venlafaxine. Nên ngừng điều trị bằng venlafaxine cho trẻ em và thiếu niên có huyết áp tăng cao liên tục. Nếu điều trị trong thời gian dài nên kiểm tra nồng độ cholesterol huyết thanh của bệnh nhân. Độ an toàn của thuốc khi dùng cho bệnh nhi dưới 6 tuổi chưa được đánh giá.

Các phản ứng tương tự hội chứng an thần kinh ác tính (NMS)

          Tương tự các thuốc tác động trên hệ serotonergic khác, hội chứng serotonin hoặc các phản ứng tương tự hội chứng NMS đe dọa đến tính mạng có thể xuất hiện trong quá trình điều trị bằng venlafaxine, đặc biệt khi sử dụng đồng thời với các thuốc serotonergic khác (bao gồm SSRIs, SNRIs), hoặc với các thuốc làm giảm chuyển hóa serotonin (bao gồm MAOIs, xanh methylen), hoặc với các thuốc chống loạn thần, các thuốc đối kháng dopamin khác. Các triệu chứng của hội chứng serotonin có thể bao gồm thay đổi trạng thái tâm thần (ví dụ, kích động, ảo giác, và hôn mê), rối loạn hệ thần kinh tự động (ví dụ, nhịp tim nhanh, huyết áp không ổn định và tăng thân nhiệt), bất thường thần kinh cơ (ví dụ, tăng phản xạ, mất phối hợp) có kèm hoặc không kèm theo các triệu chứng tiêu hóa (ví dụ, buồn nôn, nôn và tiêu chảy). Hội chứng serotonin ở thể nặng có thể giống với hội chứng an thần kinh ác tính, bao gồm tăng thân nhiệt, cứng cơ, rối loạn hệ thần kinh tự động có thể có kèm theo sự thay đổi nhanh các dấu hiệu sinh tồn và thay đổi trạng thái tâm thần. Trong trường hợp dùng đồng thời venlafaxine với các thuốc khác có ảnh hưởng đến hệ dẫn truyền thần kinh liên quan đến serotonin và/hoặc dopamin, các bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ, đặc biệt khi bắt đầu điều trị và khi tăng liều. Không khuyến cáo sử dụng đồng thời venlafaxine với tiền chất của serotonin (như các chế phẩm bổ sung tryptophan).

Glaucoma góc đóng

          Giãn đồng tử có thể xuất hiện khi dùng venlafaxine. Các bệnh nhân bị tăng nhãn áp hoặc các bệnh nhân có nguy cơ glaucoma góc đóng cấp tính cần phải được theo dõi chặt chẽ.

Hệ tim mạch

          Venlafaxine chưa được đánh giá trên bệnh nhân có tiền sử gần đây bị nhồi máu cơ tim hoặc bệnh tim không ổn định. Do đó, cần thận trọng khi dùng venlafaxine cho các bệnh nhân này. Tăng huyết áp phụ thuộc liều dùng đã được ghi nhận trên một số bệnh nhân dùng venlafaxine. Các trường hợp tăng huyết áp cần điều trị ngay đã được ghi nhận trong quá trình theo dõi sau khi thuốc đã lưu hành trên thị trường. Các bệnh nhân cần điều trị venlafaxine được khuyến cáo kiểm tra huyết áp, cũng như cần khảo sát kĩ tiền sử bệnh tăng huyết áp của bệnh nhân trước đây. Cần thận trọng cho bệnh nhân có các bệnh tiềm ẩn có thể nặng thêm do huyết áp tăng. Có thể xuất hiện tình trạng tăng nhịp tim, đặc biệt khi dùng ở liều cao. Cần thận trọng khi dùng thuốc cho các bệnh nhân có bệnh lý tiềm ẩn có thể nặng lên do nhịp tim tăng. Các trường hợp kéo dài khoảng QT, xoắn đỉnh (TDP), nhịp nhanh thất và đột tử đã được báo cáo trong quá trình lưu hành thuốc. Phần lớn các báo cáo đều xảy ra do sử dụng thuốc quá liều hoặc trên những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ khác gây kéo dài khoảng QT/xoắn đỉnh. Do đó, venlafaxine nên được sử dụng thận trọng trên những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ gây kéo dài khoảng QT.

Co giật

          Các cơn co giật có thể xuất hiện khi điều trị bằng venlafaxine. Tương tự các thuốc chống trầm cảm khác, nên thận trọng khi dùng venlafaxine cho bệnh nhân có tiền sử co giật.

Hưng cảm/hưng cảm nhẹ

          Hưng cảm/hưng cảm nhẹ có thể xuất hiện trên một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân bị rối loạn tâm thần dùng các thuốc chống trầm cảm, bao gồm cả venlafaxine. Tương tự các thuốc chống trầm cảm khác, nên thận trọng khi sử dụng venlafaxine cho bệnh nhân có tiền sử bản thân hoặc gia đình có rối loạn lưỡng cực.

Hung hãn

          Thái độ hung hãn có thể xuất hiện trên một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân dùng thuốc chống trầm cảm, bao gồm cả bệnh nhân điều trị bằng venlafaxine, trong trường hợp này nên giảm liều hoặc ngừng dùng thuốc. Tương tự các thuốc chống trầm cảm khác, nên thận trọng khi dùng venlafaxine cho bệnh nhân có tiền sử thái độ hung hăng, gây hấn trước đây.

Hạ natri máu

          Các trường hợp hạ natri máu và/hoặc hội chứng bài tiết không hợp lý hormon chống bài niệu (SIADH) có thể xuất hiện khi dùng venlafaxine, thường gặp trên bệnh nhân mất nước hoặc giảm thể tích tuần hoàn. Các bệnh nhân cao tuổi, bệnh nhân dùng thuốc lợi tiểu và bệnh nhân bị giảm thể tích phân bố do các nguyên nhân khác có thể có nguy cơ hạ natri máu cao hơn.       

Chảy máu

          Các thuốc ức chế thu hồi serotonin có thể ảnh hưởng đến sự kết tập tiểu cầu. Đã có các báo cáo về hiện tượng chảy máu bất thường khi dùng venlafaxine, từ xuất huyết da, niêm mạc và xuất huyết tiêu hóa đến các xuất huyết có thể đe dọa đến tính mạng. Tương tự các thuốc SSRI khác, nên sử dụng thận trọng venlafaxine cho các bệnh nhân có nguy cơ xuất huyết, bao gồm các bệnh nhân đang dùng các thuốc chống đông và các thuốc ức chế kết tập tiểu cầu.

Giảm cân

          Độ an toàn và hiệu quả khi kết hợp venlafaxine với các thuốc giảm cân, bao gồm phentermin, chưa được xác định chắc chắn. Dùng đồng thời venlafaxine và các thuốc giảm cân không được khuyến cáo. Venlafaxine không được chỉ định sử dụng đơn độc hay phối hợp với các thuốc khác để giảm cân.

Cholesterol huyết thanh

          Tăng cholesterol huyết thanh có ý nghĩa lâm sàng được ghi nhận trên 5,3% bệnh nhân điều trị bằng venlafaxine và 0% ở nhóm bệnh nhân dùng giả dược trong ít nhất 3 tháng trong các nghiên cứu lâm sàng có đối chứng với giả dược. Nên đo nồng độ cholesterol huyết thanh trong quá trình điều trị dài ngày. Ngừng dùng thuốc: Các tác dụng khi ngưng thuốc được biết rõ thường xảy ra khi dùng thuốc chống trầm cảm, do đó với bất cứ dạng bào chế nào của venlafaxine, cần giảm dần liều khi ngưng thuốc và theo dõi bệnh nhân cẩn thận.

Lạm dụng và phụ thuộc thuốc

          Các nghiên cứu lâm sàng không cho thấy bằng chứng xuất hiện sự lệ thuộc thuốc, dung nạp thuốc, hoặc cần tăng liều theo thời gian.

Ảnh hưởng trên khả năng lái xe và vận hành máy móc

          Venlafaxine không ảnh hưởng đến tâm thần vận động, nhận thức hoặc việc thực hiện các hành động phức tạp trên người tình nguyện khỏe mạnh. Tuy nhiên, bất cứ các thuốc tâm thần nào cũng có thể làm suy giảm khả năng phán đoán, suy nghĩ và kỹ năng vận động. Do đó, bệnh nhân nên thận trọng khi lái xe hoặc vận hành máy móc nguy hiểm.

 

4. CẢNH BÁO AN TOÀN THUỐC

 

       Cung cấp thông tin liên quan đến tính an toàn của thuốc giảm đau nhóm opioide, thuốc điều trị ĐTĐ tuýp 2 chứa metformin, thuốc chứa saxagliptin, alogliptin, thuốc kháng sinh nhóm fluoroquinolone và thuốc chứa ketoconazole viên nén dạng uống

DS. Phan Tấn Thanh

Nguồn: canhgiacduoc.org.vn

          Ngày 21/12/2016, Cục Quản lý Dược Việt Nam có Công văn 24812/QLD -TT gửi Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các bệnh viện, viện có giường bệnh trực thuộc Bộ Y tế về việc cung cấp thông tin liên quan đến tính an toàn của thuốc giảm đau nhóm opioide, thuốc điều trị ĐTĐ tuýp 2 chứa metformin, thuốc chứa saxagliptin, alogliptin, thuốc kháng sinh nhóm fluoroquinolone và thuốc chứa ketoconazole viên nén dạng uống.

          Để đảm bảo sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, Cục Quản lý Dược yêu cầu Sở y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các bệnh viện, viện có giường bệnh trực thuộc Bộ Y tế:

          Thông báo cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, các đơn vị kinh doanh dược phẩm trên địa bàn các thông tin liên quan đến tính an toàn, hiệu quả của các thuốc/nhóm thuốc nêu trên.

           Hướng dẫn các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên địa bàn tăng cường theo dõi, phát hiện và xử trí các trường hợp xảy ra phản ứng có hại (ADR) của các thuốc nêu trên (nếu có). Gửi báo cáo ADR về: Trung tâm quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc (13-15 Lê Thánh Tông, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) hoặc Trung tâm khu vực về thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc TP. Hồ Chí Minh (201B Nguyễn Chí Thanh, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh).

          Cục Quản lý Dược sẽ tiếp tục cập nhật các thông tin liên quan đến tính an toàn và hướng dẫn xử trí đối với các ADR của các thuốc nêu trên để yêu cầu các cơ sở đăng ký thuốc cập nhật vào nhãn và tờ hướng dẫn sử dụng thuốc trong thời gian tới./.

 

 

 

 

 

 

 
Thông báo
Video